Diễn đàn Ngọc Lặc !
Bạn đang xem tại diễn đàn ngoclac2school!

Bạn hãy đăng kí thành viên hoặc đăng nhập để có thể xem link tải các file trong các thư mục của diễn đàn .

Nếu bạn đăng nhập hoặc đăng kí không được có thể do bạn đang bật font tiếng việt và hãy tắt nó đi trước khi đăng nhập hoặc đăng kí trên diễn đàn này !

Chúc bạn có một ngày vui vẻ !
Diễn đàn Ngọc Lặc !
Bạn đang xem tại diễn đàn ngoclac2school!

Bạn hãy đăng kí thành viên hoặc đăng nhập để có thể xem link tải các file trong các thư mục của diễn đàn .

Nếu bạn đăng nhập hoặc đăng kí không được có thể do bạn đang bật font tiếng việt và hãy tắt nó đi trước khi đăng nhập hoặc đăng kí trên diễn đàn này !

Chúc bạn có một ngày vui vẻ !

Diễn đàn Ngọc Lặc !


 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

Share
 

 Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân - (1)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
sailam94
Nhập học
Nhập học
sailam94

Nhiệm vụ đã hoàn thành ! Nhiệm vụ đã hoàn thành ! :
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân -    (1) Th_1510
admin ngoclac2school

Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 245
Điểm Điểm : 783
Danh tiếng Danh tiếng : 1
Giới tínhNam
Tuổi : 29
Ngày tham gia : 24/02/2012
Đến từ Đến từ : Ngọc Lặc

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân -    (1) Empty
Bài gửiTiêu đề: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân - (1)   Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân -    (1) EmptySun Apr 22, 2012 1:46 pm


Sau đây là bài tham khảo :

Bài 1:
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc .

Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái lườm của chị vợ..giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của gia đình.

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.

Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Những hình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nào Bản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng. Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn " Vợ nhặt". Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tấm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.
Tác phẩm đã dựng được hoàn cảnh tiêu biểu, làm sống dậy cả một quãng thời gian đau thương của dân tộc, xây dựng được các nhân vật tiêu biểu. Trước hết tác giả tái tạo không khí truyện rất đạt, đó là không khí những ngày đói khủng khiếp. Trời đất xóm thôn lúc nào cũng chạng vạng, u tối, thê thiết tiếng quạ kêu, tiếng người khóc. Các nhân vật của truyện đã đến mức dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Trong bối cảnh ấy người vợ nhặt hay bà mẹ Tràng đều là các số phận điển hình. Tất cả được dẫn dắt sống động, rất chân thật với các chi tiết rất đắc ( chi tiết mấy đĩa bánh mà nên vợ nên chồng ...). Chỉ thông qua cách nói chuyện của đôi vợ chồng mới, thấy rõ nhà văn dường như đưa nhân vật sống ngoài đời vào thẳng tác phẩm. Họ đối đáp chỏng lẻn, câu cú không đầu không đuôi, lời ít đến mức tối thiểu. Điều đó thể hiện con người bình dân của họ, thể hiện cái tâm lí e ngại, thẹn thùng, chưa hiểu biết nhiều về nhau của " cô dâu, chú rể".
Nét đặc sắc nhất trong thành công nghệ thuật của Kim Lân là ở chỗ ông đi sâu vào tâm lí nhân vật, miêu tả được diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tự nhiên, hợp lí sâu sắc. Len lỏi vào, đốt phá qua lớp vỏ bề ngoài với con mắt ti hí, cái đầu trọc, thân hình thô kệch của Tràng, tác giả thấu hiểu và dẫn giải nhân vật với những diễn biến tâm lí lô gích, rất người. Dưới ngòi bút Kim Lân, một mơ ước thầm kín về một hạnh phúc đơn sơ, nhỏ nhoi; sự chuyển biến từ một kẻ tồn tại, thiếu tình cảm thành một người đàn ông biết yêu thương , có trách nhiệm, khiến ta cảm động. Cả người " Vợ nhặt" lẫn bà mẹ già nghèo khổ cũng biến chuyển, họ trở nên tốt hơn, hiền hậu hơn và phần nào tin ngày mai sẽ khác.

Bài 2 :

Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại nhớ đến “Một đám cưới nghèo” của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độc đáo và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn vào loại hay nhất trong văn học Việt Nam hiện đại
Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay

Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ “đến năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang hoành hành. Cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm.
Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời này không”
Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.
Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về nhà. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu.
Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống...Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên” tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đ*********, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân phận bọt bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít....
Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rủ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rủ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.
Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu., tuyệt vời đức hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp....Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.


Về Đầu Trang Go down
 

Phân tích tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân - (1)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm vợ nhặt ! - Kim Lân - (2)
» Phân tích tình huống truyện độc đáo của tác phẩm vợ nhặt ! - Kim lân - (3)
» Phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt ! - Kim Lân - (4)
» Phân tích tác phẩm vợ chồng A Phủ ! - Tô Hoài - (1)
» Tóm tắt tác phẩm vợ nhặt, thuốc, số phận con người !

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn Ngọc Lặc ! :: Tài liệu học tập ! :: Tài liệu lớp 12 :: Văn học-
-----------------------